Thứ Ba, 7 tháng 4, 2015

THẦN THÁNH TRUNG HOA .NHƯỢC THỦY DỊCH . BÀI 15.

THẦN THÁNH TRUNG HOA Bản dịch của Nhược Thủy - dienbatn giới thiệu. LỜI NÓI ĐẦU : Đây là bản dịch rất công phu của Nhược Thủy trong trang Ho... thumbnail 1 summary
THẦN THÁNH TRUNG HOA
Bản dịch của Nhược Thủy - dienbatn giới thiệu.

LỜI NÓI ĐẦU : Đây là bản dịch rất công phu của Nhược Thủy trong trang Hoangthantai . Nay không còn thấy trang này hoạt động nữa. dienbatn chép lại vào đây để làm tư liệu . Mong bác Nhược Thủy cảm thông.
 THẦN THÁNH TRUNG HOA TẬP  I
Lời giới thiệu:- Nhận thấy từ trước đến nay, người Việt Nam chúng ta theo phong tục tập quán của người Trung Hoa, nên đã tin tưởng và thờ phụng rất nhiều vị Thánh, Thần giống như người Trung Hoa. Tài liệu giải thích về các Ngài thì quá ít và không có cơ sở khảo cứu , chỉ theo truyền khẩu nhiều hơn. Nay tôi xin cố gắng dịch những tài liệu nầy từ một Website có uy  tín và khảo cứu cẩn thận, xin kính tặng tất cả huynh đệ trong 4R-HTT. Nếu có chỗ nào sai sót, xin quí cao nhân hoan hỉ chỉ bảo cho (kèm theo nguyên tác  để quí vị dễ đối chiếu).
Xin thành thật cảm ơn quí huynh đệ.
Nhược Thủy
( Mùa Hạ năm Mậu Tí-2008).
Phần bổ sung cho bài “Huyền Thiên Thượng Đế”.
70.- Nam Cực Trường Sinh Đại Đế (Nam Cực Tiên Ông).
Nam Cực Trường Sinh Đại Đế
* Nam Cực Trường Sinh Đại Đế còn gọi là Ngọc Thanh Chân Vương, là con thứ chín của Nguyên Thủy Thiên Vương.
Thường Phụng thờ cúng tế Ngài sẽ được khỏe mạnh sống lâu Ngài còn. Có tên gọi khác là Nam Cực Tiên Ông, Nam Cực Chân Quân, Trường Sinh Đại Đế, nhân vì Ngài chủ về tuổi thọ, nên công gọi là "Thọ Tĩnh "hoặc" Lão Nhân Tịnh ".
* Đạo Giáo là tôn giáo có tôn chỉ mưu cầu sự trường sinh, nên trong Phả hệ thần thánh của họ phải có một vị chủ về thọ mệnh của người con.
* Thời cổ đại rất sùng bái tinh tú, danh sách rất nhiều, thời gian lâu dài mà không bị bỏ bớt Trong đó., "Thọ Tinh" là được mọi người hoan nghênh, được phổ biến rộng rải nhất.
* Trong "Sử Ký-Phong Thiện Thư" làm Tư Mã Trinh viết: - "Thọ Tinh tức Nam Cực Lão Nhân, chủ về sự an ổn và tuổi thọ của người".
Trọng "Nhĩ Nhã-Thích Thiên" lại nói: - "Thọ Tĩnh, là sao Giác, sao Cang vậy" Hải sao. Giác và Cang là hiện sao đứng đầu trong bảy sao Thanh Long ở phương Đông của hệ Nhị Thập Bát Tú. Quách Phác chú giải: - "Thọ Tĩnh, là hai sao khởi đầu Giác và Cang, hai sao dài chiều nay, tượng trưng cho tuổi thọ lâu.
Tư Mã Thiên trong "Sử Ký-Thiên Quán Thư nói thì": - "Tại phương Tây có bốn ngôi sao lớn, gọi là" Nam Cực Lão Nhân ". Nhìn thấy Lão Nhân Tịnh xuất hiện thì đất nước là ổn, nếu không thì thấy có binh đao "
-Đại học giả đời Đường Trương Thủ Tiết nhận xét về lời giải thích của Tư Mã Thiên như sau: "Lão Nhân chỉ có một sao, ở góc về phương Nam (đông nam của Thiên Lang Tĩnh), còn gọi là Nam Cực, chủ về tuổi thọ lâu dài và một sự ổn Thấy nó thì. vận mệnh đất nước tốt, nên gọi là "Thọ Xương"; không thấy nó, tất có nhiều ưu sầu lo lắng "Cho thấy là., mọi người rất quan tâm đến Thọ Tĩnh.
-Trọng "Hán Thư-Thiên Văn Chí" nói "Nam Cực Lão Nhân thường lấy thời điểm sau Thu Phân mà hiện". Lại trong "Hậu Hán Thư nhất nghi chí" nói: - "Mặt trăng tháng tám, bảy mươi tuổi mới , chống gậy, ăn cháo Đến tám. mươi, chín mươi, có lễ ban cho thêm .... Thờ Phụng Lão Nhân Tịnh Lão Thái Miếu ở phía Nam kinh đô ".
* Như vậy, tử xưa, hai bên Thiên Văn Học và tôn giáo đã có sự quan tâm khảo sát và phát hiện Thọ Tĩnh rồi. Trong đó nêu lên hai ý nghĩa: - thứ nhất là xác định khu vực của sao trên trời, ở vị trí sao Giác sao Cang của Nhị Thập Bát Tú; thứ nhì là nêu lên Nam Cực Lão Nhân Tịnh thời Đông Hán là đã có ý nghĩa tôn kính người già và xác nhận bắt đầu có sự cúng tế Lão Nhân Tịnh.
* Trọng hệ Nhị Thập Bát Tú, bảy sao phương Đông là: - Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ tạo thành hình Thành Long, mà Giác hai ngôi sao lại có hình dạng cái sung dê con, nên nói "sao Giác ở về phương Đông, giống như rồng sung" Sao Cang bốn. ngôi sao nâng Càng đi lên, nên gọi là "Kháng" (trên cao, chở che) giống như hình đầu rồng Khoa thiên. văn học ngày nay lại lấy hai sao nay xếp vào vị trí của sao Thất và sao Nữ, trong đó Giác là sao sáng nhất hạng Mỗi năm. vào đầu tháng năm, lúc chiều trời thật trong, bảy giờ tối thì thấy Lão Nhân Tịnh rất rõ Nhưng vì. vị trí của nó ở vĩ độ 50 độ Nam, nên ở Trung Quốc, nhất là phía Bắc thì không thể thấy rõ, chỉ có từ địa khu Nam Hòa của Trường Giang trở xuống phía Nam thì thấy được.
* Từ thời Chu, Tần việc cúng tế Thọ Tinh chẳng qua là cúng Nam Cực Lão Nhân Tịnh (sao Cang) Nhưng sách theo ". Thông Điển-Lễ Tứ" nói: - "... ban chiếu lệnh cho Ty sở lập đàn Thọ Tĩnh để cúng tế sao Lão Nhân Tịnh tức bảy sao Giác, Cang ", cho đến đời nhà Đường mới hợp lại cúng chung hai sao nay.
* Từ Chu Tần về sau, Thọ Tĩnh được các vua chúa các Triều đại cho ghi vào "Sách Cúng Tế của Hoàng Gia" Đến đời. Minh, tuy sách bỏ cúng tế, nhưng trong dân gian vẫn còn lưu hành nghi lễ này. như là đời Minh, các sách Bạch Xà Vân, sau đổi là Lôi Phong Tháp và Nghĩa Yêu Vân, về sau là Tam Bảo Vân Tiên, trong đó hình tượng Thọ Tinh là một vị Tinh Quân có lòng tốt cứu giúp tuổi thọ đã xuất Khi hiện sách. Bạch Xà Vân được chuyển thể thành tuồng hát, đoạn "Dạo Tiên Thảo" (ăn trộm cỏ tiên) diễn tả: - Bạch xà uống rượu hùng hoàng vào bị hiện nguyên hình rắn, khiển cho Hứa Tiên sợ đến chết xác chàng. được đưa đến núi Côn Lớn, Bạch Xà ăn cắp cỏ tiên bị hai tướng Hạc và Lộc ngăn trở, Nam Cực Tiên Ông hiện xuống, tặng chàng "chi linh" uống lại và sống. Ai xem đoạn đến nay đều cũng cảm động rơi lệ.
* Tiểu thuyết nổi tiếng đời Minh "Cảnh Thế Thông Ngôn" quyển thứ 39 là "Phước Lộc Thọ Tam Tinh độ thế" đã giảng giải rất nhiều sự tích cứu đời của Nam Cực Tinh Ngoài ra., Các vở kịch khác đời Nguyên Minh cũng lấy đề tài như: - Nam Cực Đăng Tiên, Quần Tiên Chúc Thọ, Trường Sinh Hội vv ...
* Hình tượng thờ Thọ Tĩnh từ cuối đời Minh thì được hoàn chỉnh như sau: - "đầu đội mạo liên hoa, mắc áo lông hạc, con bế, tóc bạc, râu bạc, tay cầm Ngọc Khuê", có nơi thêm tay cầm quyền trường nhiều khúc uốn cong, Trần Cao thẳng, gọi là Thọ Tinh Cao Phòng Động.
-Còn ở thời Đông Hán, cùng lúc làm lễ cúng Thọ Tĩnh, đồng thời cũng lồng ghép thêm "lễ chúc thọ các cụ già" Từ bảy mươi tuổi trở lên,. Mỗi cụ được tặng một cây gậy dài chín thước, đầu khắc hình chim cưu (tu hú). (Chú thích: - Dove:-Cửu: - Con tu hú Tính nó. vựng tổ làm không biết, nên hay dùng để nói ví những kẻ không biết việc kinh doanh nhà Nó lại. là một loài chim ăn không mắc nghẹn bao giờ, nên cho những gậy của người già hay chống khắc hình con cưu vào. Như trường chim bồ câu cưu thanh gậy cưu chim khắc hình-NT) Đây là xuất xứ của Thọ Tinh nay sau cầm gậy. Về hình trạng cầm gậy, quyển 4 của "Trình Sử" viết: - "Thọ cầm Tĩnh trường (gậy), thị trường phải dài hơn người của tay, lại có dáng GÃY Neu khúc ngắn. trường thẳng mà, là ý gậy hộ thân , là vật bất tường vậy "Cho nên. hình tượng thờ Thọ Tĩnh từ trước đời Nam Tống là có hình dáng GÃY khúc Còn về. hình dáng đầu Thọ Tĩnh có Trần Cao mà thẳng, gọi là tướng" Cao não môn ", theo "Thông Tục Biên" có ghi "Thế tục họa hình Thọ Tinh để thờ, có đầu rất dài" Trọng ". Nam sử-Di mạch vân" nói "Tỷ Khiên Vương xưa mình cao một hai trường, đầu dài ba thước, từ xưa được xem là vua bất tử cổ dài ". Người họa hình lấy ý theo đó mà vẽ Thọ Tĩnh, tiêu biểu cho sự trường thọ.
-Trước đời Nguyên Minh, thường thấy có Đền thờ hoặc Đàn Thọ Tinh Sau đời. Minh, dân gian đem Thọ Tinh kết hợp với hai ông Phước Tĩnh và Lộc Tĩnh thờ chung lại, gọi là Tam Tinh Pước Lộc Thọ, được mọi người hoan nghênh Trọng lễ chúc thọ,. thường đặt tượng Phước Lộc Thọ ở giữa, hai bên có hai câu liên treo "Phước như đông hải" và "Thọ tỉ nam sơn" hay "Danh cao Bắc đâu".
* Thọ Tĩnh có danh xưng đầy đủ là "Cao Thượng Thần Tiêu Ngọc Thanh Chân Vương Sinh Trường Đại Đế Thống Thiên Nguyên Thánh Thiên Tôn", cư ngụ ở Ngọc Thanh phủ, Cao Thượng Thần Tiêu Cung.
* Về lai lịch của Nam Cực Trường Sinh Đại Đế có hai thuyết giải thích: --
1 .- Là trưởng tử của Nguyên Thủy Thiên Vương Theo Đạo. Kinh "Cao Thượng Thần Lôi Ngọc Thanh Chân Tử Vương Thư Đại Pháp - Tự" viết: - "Xưa chưa thành hình vũ trụ, nguyên khí chưa sanh ra, Nguyên Thủy Thiên Vương là Tổ của Hạo Mang Minh Luật Đại Phạm (cõi mờ mit mênh mang chưa phân biệt), ngưng Thái Thân kết, tạo thành "hỗn độn", kế có trời đất, chia ra khí bên trong và ngoài khí, gọi là "hư hỗn" Nguyên Thủy. Thiên Vương vận thần thông mở ra vũ trụ, tạo nên mặt trời, mặt trăng, các sao Rồi chia. thành trời đất Ở Ngọc. Kinh, Ngài phối hợp với Tổ Mẫu Khí Vạn Thái Ngọc Huyền cực Nguyễn Cảnh Tự Nhiên Cửu Thiên Thượng Huyền Ngọc Thanh Thần Mẫu, sanh ra tám người con. Người con trưởng là Nam Cực Trường Sinh Đại Đế Còn có hiệu là. "Cửu Long Phù Tang Nhật Cung Đại Đế" và "Cao Thượng Thần Tiêu Ngọc Thanh Vương "Một mình có ba tên, là một vị Thánh vậy.." Vị Chân. Vương nay (tức Nam Cực Trường Sinh Đại Đế) đã ngưng ở thần cung khuyết kim, giải cứu tam tai bát nạn cho sanh linh , hộ trì cho chín cõi tuyền phong, cứu giúp cho tất cả tội hồn đang chịu báo ứng. Thế gian nếu người nào có lòng tin, cầu khẩn nơi Ngài, chẳng kể ngày đêm, không nói xa gần, Ngài liền ứng cứu hiện giúp, Sức thần thông của Ngài có thể nói là "khó nghĩ bàn", chúng sanh trong tam giới cửu u đều có thể nương tựa Theo sách. "Thần Chân Tiêu Vương Bí Pháp" (một bộ ba quyển) dạy rằng: -- "Đức Ngọc Thiên Nguyên Thủy Thượng Đế nơi Tử Vi Thượng Cung Tử Quỳnh truyền bá bí pháp" Cao Thượng Thần Tiêu Ngọc Thanh Chân Vương Trường Sinh Hộ Mệnh Bí Pháp "cho Ngài để cứu giúp chúng sinh".
2 .- Là con thứ chín của Nguyên Thủy Thiên Vương Theo sách. "Cao Thượng Cửu Tiêu Ngọc Thanh Đại Phạm Tử Vi Huyền Đô Lôi Đình Ngọc Kinh" nói rằng, "con thứ chín của Nguyên Thủy Thiên Vương được làm phong" Cao Thượng Thần Tiêu Ngọc Thanh Chân Vương Sinh Trường Đại Đế ", chủ quản ba mươi sáu cõi trời ở cửu tiêu, thống lãnh ba mươi sáu vị Thiên Tôn. Đồng thời sách" Cao Thượng Thần Lôi Ngọc Thanh Chân Tử Vương Thư Đại Pháp " ở một quyển, phần phong chức cho tám con người, có nói đến Nam Cực Trường Sinh Đại Đế, là được phong làm "Cao Thượng Thần Lôi Ngọc Thanh Vương" và "Thái Dương Cửu Khí Ngọc Hiền Quân" hay "Thái Dương Cửu Khí Ngọc Hiền Quân "Tên huy của Ngài là Côn Động,. tên chữ Diệu Hoa. Trong kinh" Bát Đế phong hiệu quan chức vị "cũngg có nói đến Ngài: -" người con thứ chín làm được phong Thần Tiêu Ngọc Thanh Chân Vương hay còn gọi là Thái Bình Ứng Hóa Đạo Chủ Đại Đế, cũng có tên là Diệu Lãnh Phù Tang Cửu Khí Thái Dương Thần Quân ". Thuyết nay được chấp nhận hiện nay..
* Nhược Thủy dịch
(từ http://www.taoism.org.hk).
* Phần phụ thêm: 
TINH QUÂN - NAM CỰC TIÊN ÔNG.


TINH QUÂN
NAM CỰC TIÊN ÔNG
Nam Đầu Tinh Quân còn gọi là Nam Cực Lão Nhân, Nam Cực Đại Đế hoặc Nam Cực Tiên Ông.
Xét về gốc gác của vấn đề, ta thấy Nam đầu ở phương Nam, làm sáu ngôi sao hợp thành, có hình dạng như cái "đấu" (đồ dùng để đong ngày xưa), cho nên gọi là Nam Đầu (cái đấu phương nam).
* Sách "Sử Ký đại quan thư chú" chép: - "Nam Đâu có sáu sao, ở hướng Nam".
* "Tinh kinh" (kinh về sao) chép: - "Nam Đâu có sáu sao, chủ về nhận lệnh của vua, lại chủ về tuoc lộc Tể Tướng".
* Sách "Hồn thiên phú" của Dương Quỳnh chép: - "Nam chủ đầu về tuoc lộc, còn Đông bích thì chủ về văn chương".
* Sao Nam Cực còn gọi là "Thọ Tinh" (sao chủ về tuổi thọ), "Lão nhân tinh", "Nam cực lão nhân tinh" hay "Nam cực lão nhân".
* Sách "Sử ký phong ẩn thiền sách thư" chép: - "Thọ tinh là Nam cực lão nhân tinh", thờ cúng vị ấy để cầu phước thọ ".
* Sách "Hậu Hán thu thiên chí" chép: - "Sao Lão nhân còn gọi là sao Nam cực".
* Sách "Sử ký quan thiên thư" chép: - "Có sao lớn hình sói con giống, gọi là sao Nam cực lão nhân".
* Nhà thơ Đỗ Phủ có hai câu thơ: --
- "Nam cực lão nhân tự hữu tinh,
Bắc sơn di văn minh thùy Lặc "
(lão già nam cực có tên sao, bài văn ở núi bắc thì ai khắc)
* Nam Đâu có sáu sao, sao nam cực là một sao nằm ở giữa, chủ về phước thọ. Còn "Nam Cực Tiên Ông" lại là vị thần chủ về phước thọ, để ám chỉ sự sống lâu của người con. Đó không phải là Nam đầu tinh, cũng không phải để chỉ sao Nam cực.
* Sao Nam đầu hay sao Nam cực chỉ là yếu tố tự nhiên, nhưng tin tưởng dân gian mới ghép gan với việc các sao ấy có quyền lực siêu nhiên về quyết định vận mệnh của loài người, trở thành việc sùng bái vị "Thọ thần ".
* Nhược Thủy dịch
(từ http://www.fushantang.com) 
71.TIÊN THIÊN TÔN THẦN
THÁI AT CỨU KHỔ THIÊN TÔN.
THÁI ẤT CỨU KHỔ THIÊN TÔN
 * Thái Ất Cứu Khổ (Hộ) Thiên Tôn hay "Tầm Thanh Cứu Khổ Thiên Tôn", "Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn", gọi tắt là "Cứu Khổ Thiên Tôn".
* Theo truyền thuyết cho rằng Ngài là một trong hai vị thị giả của Ngọc Hoàng Đại Đế, trợ giúp cho Ngọc Đế thống Ngự muôn loài.
Đạo Gia thì cho rằng, Ngài là hóa thân của Thanh Huyền Thượng Đế, phát các cứu giúp tất cả chúng sinh, nên hóa thân thành Cứu Khổ Thiên Tôn để giúp đời.
* Theo "Thái Ất Cứu Khổ Hộ Thân Diệu Kinh" nói: - "Ở thế giới Trường Lạc về phương Đông có một vị đại nhân đại từ tên là Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, hóa thân của Ngài nhiều như số cát sông Hằng , cứu liền nghe tiếng Hoặc trụ. ở thiên cung, hoặc giáng xuống nhân gian, hoặc ở địa ngục, hoặc lan vào đám đông, hoặc hiện Kim Đồng Ngọc Nữ, hoặc hiện Đế Quân, Thánh Nhân, hoặc làm Thiên Tôn Chân Nhân , hoặc làm Kim Cang Thần Vương, hoặc làm Ma Vương Lực Sĩ, hoặc làm Thiên Sư Đạo Sĩ, hoặc làm Huỳnh Nhân Lão Quân, hoặc làm Thiên Y Công Tạo, hoặc hiện thân nam thân nữ, hoặc làm quan văn quan võ, hoặc làm Đô Đại Nguyên Soài Rạp, hoặc làm Pháp Sư Thiền Sư, hoặc làm Thần Mưa Thần Gió ... Thần thông vô lượng, công hạnh vô cùng, tầm thanh cứu khổ, ứng biến tùy duyên ".
* Vị Thánh nay ở trời gọi là Thái Nhất Phước Thần ", ở thế gian xưng là Đại Từ Đại Bi, ở địa ngục tôn làm Nhật Diệu Đế Quân; ngoại đạo tiếp thu xưng là Sư Tử Minh Vương, ở thủy phủ xưng là Động Châu Đế Quân "Khi gặp khó khăn tai nạn., chỉ cần xưng danh hiệu hay cầu nguyện Ngài là có thể" giải lo trừ nạn, biến hung thành cát ", tu theo Ngài có thể đạt công thành quả mãn, giữa ban ngày sanh lên cõi trời.
* Hình tượng thờ Phụng Ngài, theo sách "Đạo Giáo Linh Nghiệm Ký" nói: - "... ngồi ngay thẳng trên đóa hoa sen, chung quanh có sư tử chín đầu miệng phun lửa hỏa Diệm, tỏa ra khắp bảo tỏa, trên đầu ngài có hào quang chín sắc, phóng ra ánh sáng đập muo, rất nhiều Chân Nhân, Lực Sĩ, Kim Cang Thần Vương, Kim Đồng Ngọc Nữ hầu hạ xung quanh. "
* Ngày Đản thần của Ngài là mười một tháng mười một âm lịch.
* Còn truyền thuyết dân gian ghi trong "Bát Độ Huyết Hồ Bảo Thiên" thì nói là "mây lành che phủ thân Ngài".
* Trong "Thanh Huyền Tể Luyện Thiết Quán Thi Tự Toàn Tập" thì nói Ngài "... mình ngồi trên sư tử chín đầu, tay cầm nhánh dương liễu, quỳnh rầy nước tương hộ cứu sống còn để chúng sinh, độ hồn người vong roi chết "Có bài. thơ: --
"Đông Cực Thanh Hoa Diệu Nghiêm Cung,
Tử vụ hà quang triệt thái không
Thiên đóa liên hoa ánh bảo tỏa,
Cửu đầu sư tử xuất vân trung.
Nam Cực đan đài khai bảo cấp
Bắc Đô huyền cấm phá la phong
Duy nguyện thùy quang lai cứu hộ
Chúng đẳng khe Thủ Lệ từ dung
Thị thực công đức bất tư nghi
Cô hồn trệ Phách tảo siêu thăng "
* Dịch: --
(Ngài) Ở trong cung Đông Cực Thanh Hoa Diệu Nghiêm,
Rang tim mong chơi sáng rọi khắp cả hư không
Ngàn đóa hoa sen tỏa sáng xung quanh bảo Tọa (của Ngài)
(ngồi) Trên sư tử chín đầu bay ra khỏi mây.
Nơi đài đỏ phương Nam mở ra quí sách hôm
Kinh đô phía Bắc trong cung cấm huyền diệu phá trừ tai ách
Ban bố công đức không thể nghĩ bàn
Giúp cho những cô hồn và kẻ mê muội được siêu thăng
* CHỨC NĂNG VÀ VIỆC THỜ PHỤNG: --

 Trong sách "Thái Thượng Tam Động Biểu Văn" nêu lên có chín vị Thiên Tôn là: --
1.-Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn,
2.-Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn, 
3.-Cửu U Bát Tội Thiên Tôn,
4.-Châu Lăng Độ Mệnh Thiên Tôn, 
5.-Hoả Luyện Đan Giới Thiên Tôn, 
6.-Pháp Kiều Đại Độ Thiên Tôn,
7.-Kim Khuyết Hoá Thân Thiên Tôn, 
8.-Tiêu Dao Khoái Lạc Thiên Tôn, 
9.-Bảo Hoa Viên Mãn Thiên Tôn 
Trong đó, Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn là vị đứng đầu Chức năng của Ngài là "vượt thánh vượt phẩm,. Cực từ cực ái, Ngũ trên sư tử chín đầu, tỏa sáng bài đập muôn lành xa, tiếp độ sinh linh" .
* Lại nói, khi người gặp tai ách, chỉ cần niệm danh hiệu Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Ngài sẽ nương theo tiếng cầu mà đến cứu, giúp người giải tai trừ nạn, chuyển rủi thành có thể.
-Đối với những người tu hành, suốt đời làm thiện, tu pháp giải thoát huyền diệu Tiên gia, khi công thành quả mãn sẽ được Ngài "Ngự tỏa trên sư tử chín đầu, bài sáng đập muôn lành xa" dẫn đến sanh tiếp lên cõi trời.
* Các Đạo Quán của Đạo Giáo đều có Điện Thái Ất để thờ Ngài, hoặc tạo tượng Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn ngồi trên sư tử chín đầu, hoặc bài vị Ngài.
* Trọng Đạo Giáo, ba tiết Thượng, Trung, Hạ Nguyên, hoặc khi tổ chức Đạo Tràng cầu siêu độ cho vong linh, làm thành đại lễ, cúng tế rất trọng thể.
* Từ đời Tống, Nguyên, những khoa nghi cúng tế Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn xuất hiện rất nhiều, như: --
- "Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn Thuyết Bát Độ Huyết Hồ Bảo Thiên" 
- "Linh Bảo Luyện Độ"
- "Cửu U Đăng Nghi"
Trong những khoa nghi đó, ngoài chức năng tiếp dẫn chúng sinh, Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn còn có phép "thủy hỏa giao luyện" cứu độ vong hồn, các diệu pháp giải trừ nạn đóa vào Huyết Bồn, sa vào địa ngục của chúng sinh.
* Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn hóa hiện cứu độ mười phương nên được tôn xưng là Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn.
* Trong "Thập Phương Cáo Giản toàn tập" có nói đến chức năng của Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn là: 
1/-Hóa thân ở phương Đông, gọi là Bảo Ngọc Hoàng Thượng Thiên Tôn, "ở ngôi cung Chấn, cư Mao vị, cai quản địa ngục Phong Lôi, dùng sấm sét để trị tôi, người làm lành được siêu thăng, kẻ làm ác bị tiêu tan thân xác nơi đen tối, xét xử rất công bằng.
2 / - Hóa thân ở phương Nam, gọi là Huyền Chân Vạn Dũng Thiên Tôn, "ở ngôi cung Lý, cư Ngọ vị, cai quản địa ngục Hỏa Y, dùng lửa thiêu đốt kẻ ác, giam giữ ở cõi u minh, chịu cảnh biển khổ mênh mang, nếu không có chút duyên lành dời trước, thì không sao thoát khỏi cảnh khổ sở nơi địa ngục này.
3 / - Hóa thân ở phương Tây, gọi là Thái Diệu Điệt Cực Thiên Tôn, "ở ngôi cung đoái, cư Dậu vị, cai quản địa ngục Kim Cương, dùng phương tiện cứng rắn đập thân thể nát như, xét tội lỗi không sai sót chân tơ kẻ tóc, tìm ra công đức đã làm từ nhiều đời kiếp, cho người lành thăng thiên, kẻ dữ bị đóa.
4 / - Hóa thân ở phương Bắc, gọi là Huyền Thượng Ngọc Cao Thiên Tôn, ở ngôi cung Kham, cư Tý vị, cai quản địa ngục Bánh Lãnh, dùng băng tuyết để lấp thân người, bốn bên thành lũy bằng sắt, không có cửa ra, trên có cắm guom bén, chỉ nhìn cũng đủ sợ, những chúng gây tạo tội lỗi bị hình phạt nơi đây khó mà ra khỏi.
5 / - Hóa thân ở phương Đông Bắc, gọi là Độ Tiên Thượng Thánh Thiên Tôn, ở ngôi cung Cấn, cư Sửu vị, cai quản địa ngục Hoạch Thắng, dùng pháp hầm nấu để chạy chúng, những kẻ Bường trôi theo thất tình lục dục, nào tránh khỏi sự phản ánh của Gương soi nghiệp, thân thể tứ chi, bị thọ khổ đao bay bấm Chém, phán quyết việc tử sanh, thiện ác báo ứng phân minh.
6/-Hóa thân ở phương Đông Nam, gọi là Hiếu Sinh Độ Mạng Thiên Tôn, ở ngôi cung Tốn, cư U Phủ (phủ tối tầm), cai quản địa ngục Đồng Trụ, dùng pháp cháy thân để trị tội, phán xét thiện ác, rõ ràng vô tư như nhật nguyệt, phê cho tên họ, sao cho tránh khỏi sấm gió, chúng sinh mê muội, làm sao thoát khỏi lục đạo luân hồi.
7 / - Hóa thân ở phương Nam, gọi là Thái Linh Hư Hoàng Thiên Tôn, ở ngôi cung Khôn, cư Tuyền Khúc (đoạn suối), cai quản địa ngục Đồ Cát, dùng hình phạt đao cắt thân thể, không thiên lệch không tư vị, xét tội kiếp nhiều đời, khó cai khó xin, chuyển thế sanh tử, xác định công đức.
8 / - Hóa thân ở phương Bắc, gọi là Vô Lượng Thái Hòa Thiên Tôn, ở ngôi cung có thể, cư Âm Phủ, cai quản địa ngục Hỏa Xa, dùng hình phạt xe cán thây để trị tội, công tội định phân, vô tư minh xét, cho người đi lên hay đi xuống, cầm cân nay mực, không riêng không cong, chẳng thuận chẳng nghịch.
9 / - Hóa thân ở phương Trên, gọi là Ngọc Hư Minh Hoàng Thiên Tôn, hình tướng hợp với gốc có thể (trời), đức rộng khắp đất, cai quản địa ngục Phổ Kinh, dùng uy quyền để lớn mà việc xét, ba trăm sáu mươi ngày không nai trễ, mọi việc chơi không, một trăm lẻ tám địa ngục tuần tra, người người kính nè, xét kỹ tội nghiệp nhiều đời trước, nay đem xử lại, cho luân hồi chín địa, bắt vào ra ba đường. 
10 / - Hóa thân ở phương Dưới, gọi là Chân Hoàng Động Thần Thiên Tôn, ở ngôi U Đô, danh trên mười vua, cai quản Phủ La Phong, quyền hành thẩm tra luật lệ, có sanh lại có tử, phân định rõ ràng mà thi hành, không phe lệch không, khảo xét ba cõi u minh, ngày trước đã làm, nay sao thoát khỏi.
* Trên là nói chức năng của Thiên Tôn ở mười phương, thể hiện quyền hạn của Địa Phủ Minh Vương Nay nói. Đến việc quản lý Quỷ Thần ở Cửu U Tuyền Khúc Minh Phủ Cũng hóa sanh thành. Minh Vương Chân Quân, phương vị , nơi cư ngụ và ngày Đản thần như sau: --
1 / - Ở phương Đông, gọi là Nhất điện Thái Tố Diệu Nghiêm Chân Quân Tần Nghiêm Đại Vương, cư Huyền Minh Cung, Đản thần ngày mùng một hai tháng.
2 / - Ở phương Nam, gọi là Nhị điện Âm Đức Định Hưu Chân Quân Sở Giang Đại Vương, cư Phổ Minh Cung, Đản thần ngày mùng một ba tháng.
3 / - Ở phương Tây, gọi là Tam điện Động Minh Phổ Tĩnh Chân Quân Tống Đế Đại Vương, cư Củ Tập Cung, Đản thần ngày mùng tám tháng hai.
4 / - Ở phương Bắc, gọi là Tứ điện Huyền Đức Ngũ Linh Chân Quân Ngũ Quan Đại Vương, cư Thái Hòa Cung, Đản thần ngày mười tám tháng hai.
5 / - Ở phương Đông Bắc, gọi là Ngũ điện Tối Tạng Diệu Linh Kỳ Quân Diêm La Đại Vương, cư Củ Luân Cung, Đản thần ngày mùng tám tháng Giêng.
6 / - Ở phương Đông Nam, gọi là Lục điện Bảo Túc Chiêu Thành Chân Quân, cư Minh Thần Cung, Đản thần ngày mùng tám tháng ba. 
7 / - Ở phương Tây Nam, gọi là Thất điện Đẳng Quan Minh Lý Chân Quân Thái Sơn Đại Vương, cư Thần Hoa Cung, Đản thần ngày hai mươi bảy tháng ba.
8 / - Ở phương Tây Bắc, gọi là Bát điện Phi Ma Diễn Khánh Chân Quân Đô Thị Đại Vương, cư Bích Chân Cung, Đản thần ngày mùng một tháng tư.
(Sách "Thập Vương Cáo Bốc" nói là điện thứ chín, còn điện thứ tám là Bình Đẳng Vương, nhưng xét ý tứ không hợp, nên chỉnh lại như trên).
9 / - Ở phương trên, gọi là Cửu điện Vô Thượng Chính Độ Chân Quân Bình Đẳng Đại Vương, cư Thất Phi Cung, Đản thần ngày mùng tám tháng tư.
10 / - Ở phương dưới, gọi là Thập điện Ngũ Hoa Uy Linh Chân Quân Chuyển Luân Đại Vương, cư Túc Anh Cung, Đản thần ngày hai mươi bảy tháng tư.
* Tài liệu tham khảo:
"Thái Thượng Tam Động Biểu Văn", 
"Thái Nhất Cứu Khổ Hộ Thân Kinh", 
"Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn Thuyết Bát Độ Huyết Hồ Bảo Sám" 
* Nhược Thủy dịch 
(từ http://www.taoism.org.hk).
72. TIÊN THIÊN TÔN THẦN
Đông Vương Công
(Lần đầu Thiên Tôn Đức Chúa Trời)
Đông hoàng tử .

TIÊN THIÊN TÔN THẦN
Đông Vương Công
* Đông Vương Công còn gọi là Mộc Công, Đông Vương Phụ, Phù Tang Đại Đế, Đông Hòa Đế Quân. 
-Khởi đầu, là một vị nam thần của thần thoại Trung Quốc, về sau Đạo Giáo nâng lên thành lãnh tụ của tất cả nam thần, hai tông phái Đạo Giáo phương Nam và phương Bắc đều tôn Ngài làm Thủy Tổ.
* Danh xưng Đông Vương Công xuất hiện sau Tây Vương Mẫu khoảng vài thế kỷ Trọng ". Hán Thượng Phương Ký Minh" đã có nêu tên Ngài nhưng chưa có sự tích rõ ràng. Là sớm nhất trong "Thần Kinh Dị" mới nói về sự tích của Ngài Đông Vương Công.
-Về quyển sách này, ghi tên tác giả là Đông Phương Sóc. Nhưng trong quyển "Tứ khố Toàn Thư Tổng Mục - 142 quyển" lại nói: - "Sách nay theo Lưu Hướng trong Thất Lược không thấy ghi tên, có lẽ làm đời sau mượn danh "Trọng Tấn. Thư cũng không thấy ghi tên Thần Kinh Dị Tóm lại,. sách ghi tên tác giả Đông Phương Sóc, người chú giải là Trương Hòa, là thực sự làm các văn sĩ đời Lục Triều viết mà thôi.
* Sách nay mô phỏng theo "Sơn Hải Kinh" để phân chia khu vực thành ra "Đông Kinh Hoàng", "Đông Nam Hoàng Kinh" làm thành chín thiên Trọng Đông. Hoàng Kinh nói: - "Đông Vương Công ở trong thạch thất lớn núi Đông Hoàng Ngài cao một trường,. đầu tóc bạc phố, thân người, mặt chim mà đuôi cọp, bên cạnh có một con gấu đen, đi đâu cũng theo Thường cùng. Ngọc Nữ chơi "nem hồ", mỗi lần nem đến một ngàn hai trăm lần, người cho là mạnh mẽ, có lúc lại nem giả bộ (đùa) nên không đón tiếp (quả hồ), lấy đó làm trò cười ".
- "Trung Hoàng Kinh" nói: - "Núi Côn Lớn có trụ đồng, cao ngất trời, nên nói rằng" trụ chống trời "Chu vi. Ba Ngan dam, nhìn cao chót VOT Dưới có. Thạch thất, vuông trăm trường, chín phủ tiên nhân ở đây Trên có. con chim lớn, gọi là "Hi Hữu", đầu quay về Nam Giang cánh trái che. Đông Vương Công, Giang cánh phải che Tây Vương Mẫu. Trên lưng có một chỗ nhỏ không có lông vũ, đập rộng một vạn chín trăm Tây Vương Mẫu. leo lên cánh mà đến với Đông Vương Công ".
-Danh xưng Đông Vương Công xuất hiện, có liên quan mật thiết den văn hóa Trung Quốc Theo quan. Niệm âm dương, ngũ hành của Trung Quốc, khi đã có vị thần thuộc âm, tất phải có vị thần thuộc dương Nữ thần. là Tây Vương Mẫu, phương Tây thuộc kim, nên gọi là Kim Mẫu Đối đãi. lại, nam thần phải xưng là Đông Vương Công, phương Đông thuộc mộc, nên xưng là Mộc Công Còn về văn hóa phối hợp thì. Tây Vương Mẫu là phối ngẫu của Đông Vương Công vậy.
-Từ đó, khi nói về Tây Vương Mẫu, tất phải đề cao Đông Vương Công, xếp Ngài ở trước Vương Mẫu Sở dĩ có chuyện đến sau mà ở trước,. Là vì phải theo tôn ti tự trát của văn hóa Trung Quốc và tinh thần trọng nam Khinh nữ làm chủ đạo.
* Sách "Hải nội thập châu ký" (ghi tác giả là "Đông Phương Sóc") nói: --
"Ở cõi Phù Tang về bờ phía Đông của Đông Hải, trong" biển Biec "có đập trăm địa phương, có trên cung Đại Đế, do Ngài Thái Chân Đông Phụ Vương trị vì ở đó" Từ đó., Phù Tang có liên quan đến Đông Vương Công, trở thành trú xứ của Ngài. Điều nay giống như núi Côn Lớn có liên quan đến Tây Vương Mẫu, trở thành nơi cư ngụ của Bà Đông Vương. Công làm vậy cũng có tên là Phù Tang Đại Đế.
* Cũng đồng quan điểm như trên, trong quyển "Nguyên Thuỷ Thượng Chân Tiên Chúng Ký" phần phụ đề Chăm Trưng Thư của Cát Hồng nói: - "Khi chưa phân lưỡng nghi (âm dương), trời đất còn hỗn độn, đã có Nguyên Thủy Thiên Vương Khi đã. phân âm dương, Nguyên Thủy Thiên Vương tinh thông khí kết cùng Thái Nguyên Thánh Mẫu, sanh ra "Phù Tang Đại Đế Đông Vương Công, hiệu là Nguyễn Dương Phụ (cha nguyên dương), kế đó mới sanh ra Tây Vương Mẫu "Các Tiên thì ba ngày chầu Phù Tang Công., ba ngày chầu Tây Vương Mẫu" Lại nói.: - [Phù Tang Đại Đế là khí nguyên dương, trị vì phương Đông, nên đời gọi con trai của vua chúa là "Đông cung"].
* Phù Tang Đại Đế cư nơi Bích Hải (biển Biec), bốn bề cuộc đất ba Ngan dam vuông, trên đó có Cung Thái Chân ... tiên chúng vô lượng vô số, các vị Huyền Châu, Phương Trường chưa lên trời ở tại đó Cũng giống như nói về Tây. Vương Mẫu, những "sự tích" về Đông Vương Công có rất nhiều, không biết được đúng sai ra sao cả.
-Theo "Thượng Thanh Huyền Kỷ Thất Thánh Kinh" phần "Phù Tang Đại Đế Quân" nói Ngài là một người có vị trí rất cao trong bảy vị Thánh Phái Thượng Thanh xuất hiện vào thời kỳ. Tùy Đường của Nam Bắc Triều. Sách nay hiện nay bị thất lạc, chưa tìm thấy.
-Trọng "Thái Bình Nghiêm Ký" quyển một phần "Nói về Mộc Công", phần cuối có đề cập đến Vân Tiên Thập Vị. Sách này không biết tên tác giả, được sách Tục Sự Thủy, đời Đường, trích dẫn như sau : - "Mộc Công, tức là Đông Vương Phụ hay Đông Vương Công, là nguyên khí thuần thanh, có trước muôn vật, đầu đội mạo Tam Duy, mặc y phục bằng mây màu răng chín, cũng có hiệu là Ngọc Hoàng Quân. Hưng nam nữ đắc đạo, được lập danh sách ở đó Hồi đầu. nhà Hán, trẻ con thường phổ biến bài hát "mặc quần áo xanh, vào thiên môn, ra mắt Kim Mẫu, bái Mộc Công Lạy" Cho nên. Sau này , khi có người đắc đạo, đời thường nói là "được gặp Kim mẫu, lễ Lạy Mộc Công" là do sự tích này.
-Theo sách "Tam Giáo sưu thần đại toàn" của Tăng Toản cuối đời Nguyên đầu nhà Minh, một quyển nói về Đông Hòa Đế Quân, viết: - "Khi đạo khí ngưng lại động, liền sanh ra Mộc Công, nơi cư biển Đây là Biec. khí thuần dương ở Đông phương, gọi là Đông Vương Công, cùng với Tây Vương Mẫu sanh ra trời đất, nuôi lớn muôn vật. Phạm mười phương trong trời đất nam nữ có đăng tiên, đều làm hai vị duyệt nay xét ".
* Sáu lại nói, "khảo cứu theo sách trước, nói là ... hiệu Đông Vương Công, hay Thanh Đồng Quân, Đông Phương Gia hoặc Thanh Đề Đế Quân (có lẽ là Thanh Đồng, làm nhầm chép, người dẫn chú giải). Danh hiệu tuy nhiều, nhưng cũng chỉ là một vị Đông Hòa thôi Vua phong. chức "Đông Hòa Dương Tử Phủ Thiếu Đế Quân" vào tháng Giêng năm Điệt Nguyên thứ sáu.
* Qua các sử liệu nêu trên, chúng ta thấy là các đạo sĩ đã dùng rất nhiều danh hiệu để nói về Đông Vương Công Cuối cùng., Sự tích được chấp nhận vào đời Nguyên là: - "Sự tích về Đông Vương Công ra đời sau sự tích Tây Vương Mẫu Ngài xuất hiện làm người phối ngẫu cho Tây Vương Mẫu,. để hoàn chỉnh vấn đề: - Tây Vương Mẫu là lãnh tụ của nữ thần, Đông Vương Công là lãnh tụ của nam thần.
* Xét lịch sử thì thấy, thời nhà Đường và Bắc Tống, trong danh sách các Thần của đạo sĩ, không có tên Đông Vương Công Đến đời Nam Tống mới. Đưa vào danh sách, đứng trước Tây Vương Mẫu. 
Trong một khoa nghi quan trọng thời Nam Tống là "Kỳ tự bái chương đại tiêu nghi", có thần thỉnh danh sách, Đông Vương Công đứng thứ mười chín với tên là "Đông Hòa Mộc Công Đạo Quân".
-Đến khi Kim Doãn viết sách "Tán đàn thiết tiêu phẩm thượng" trong ba trăm sáu mươi vị thần liệt kê, Đông Vương Công được nâng lên vị trí thứ mười, với tên "Đông Hòa Thượng Tướng Mộc Công Thành Đồng Đế Quân" .
-Đến Lữ Nguyên Tố trong "Huỳnh Lục La Thiên nhất thiên nhị bách phân vị" thời Nam Tống, quyển thứ ba là "Đạo Môn định chế" chín xếp hạng mục thần thỉnh, trong đó có tên "Thủy Phủ Phù Tang Đại Đế "là vị đứng đầu thủy phủ.
-Cho dù, Đông Vương Công xuất hiện sau Tây Vương Mẫu, nhưng vì Ngài là nam tính, nên phải xếp địa vị cao hơn Ngài Tây Vương Mẫu, cho đúng với truyền thống "trọng nam nữ Khinh" thời bây giờ Việc nay. xay ra vào lúc hai tông phái Nam, Bắc Đạo Giáo hợp nhất thời nhà Nguyễn, tranh nhau chọn tướng Tổ nâng, cuối cùng nhất trí chọn Đông Vương Công làm "Tổ Sư" chung cho hai tông.
-Đạo Sĩ Tần Chí An đời Nguyên viết một quyển sách trong bộ "Kim Liên Chánh Tông Ký" nói về Đông Hòa Đế Quân: --
"Đến chỗ toàn chân của đạo, có sự nhen nhúm gầy dựng lâu dài Từ bậc. Cao nhất nói là Kim Mẫu, kế thay bằng Bạch Vân, rồi nay bằng Đế Quân" Đế Quân. Ở đây là chỉ cho Đông Hòa Đế Quân , tức Đông Vương Công Lại nói tiếp:. - "Đế Quân họ Vương, tự Huyền Phù, đạo hiệu là Đông Hòa Tử", Ngài đã "trải qua trăm ngàn đời mà dung nhan vẫn không già bị Ngài xiên. dương tông huyền , phát huy lẽ ảo diệu sâu kín, giúp đời cứu vật, đức sâu lớn như trời, nên thiên chân ban hiệu là Đông Hoa Đế Quân, còn gọi là Tứ Phủ Thiếu Dương Quân Ngài đã truyền thụ cho học trò là. Chính Dương Chân Nhân Chung Nhữu Phòng (Chung Nhữu Quyền) "Vì muốn đề cao phái Toàn Chân,. nên chỉ dựa vào một sự tích nhỏ rồi phóng đại thành chuyện lớn, để rồi phái Toàn Chân tôn Ngài làm" Đệ Nhất Tổ "vậy.
-Như vậy, Tần Chí An cho Đông Hòa Đế Quân (Đông Vương Công) một cái tên thế tục là Huyền Phù, tôn lên làm Đệ Nhất Tổ của Toàn Chân Giáo Ngài là. Thầy của nhân vật đời Hán là Chung Nhữu Quyền.
-Kế đến sách "Kim Liên Chính Tông Tượng Vân" đã sửa đổi lại tiểu sử Ngài là: - "Đế Quân họ Vương, không biết tên, sanh vào đời nào ở đâu không biết Ngài đắc. Đạo Thái Thượng, ẩn núi Côn Lớn, hiệu là Đông Hoa Đế Quân, sau dời qua Ngũ Đài Sơn, động Tử Phủ, hoặc xưng là Tử Phủ Thiếu Dương Quân Sáu dời lại đến Chung Nam Sơn,. động ngưng Dương, dạy đạo cho Chung Nhữu Quyền " 
* Một truyền thuyết khác, trong sách "Vân Tiên Thập Vị" nói: - "Đế Quân là nguyên khí thuần dương, có trước muôn thần. Ở Cư cung Thái Thần có làm tía lộng mây che phủ, mây xanh bao quanh làm thành , đã dạy làm cho muôn ức người thành tiên, cho nên các Tiên tôn Ngài làm Lão Quân.
Nói là họ Vương, để nêu lên tính tôn quí cao thượng của Ngài, chứ không phải là họ tộc thế gian, phải hiểu chỗ tinh tế đó ".
- Vua Nguyên Thế Tổ phong là hiệu: - "Đông Hòa Dương Tử Phủ Thiếu Đế Quân".
- Vua Vũ Đế gia phong làm "Đông Hòa Tử Phủ Phụ Nguyên Lập Cực Đại Đế Quân".
* Khả Đạo Xung trong "Huyền Giáo Đại Công Án" nói: - "Việc thống lãnh Đạo giáo, đến nau đã lâu Trước kia., Đức Lão Tử Đạo Đức Kinh đem giao cho Doãn Hi, mười đệ tử của Doãn Hi đều đượ chỗ kỳ diệu, nên trước sau nối nhau làm Tổ Nay,. Đế Quân ở Kim Khuyết tiếp theo thống lãnh, truyền cho Đông Hòa Đế Quân, Đế Quân truyền cho Chung Nhữu Tiên Quân, Chung Nhữu truyền cho Thuần Dương Tiên Lữ Quân. "
* Đạo giáo ở đời Lữ Hậu chia ra làm hai tông Nam, Bắc Nguyện Đặng. Kỳ trong "Đạo Đức Kinh Chân Tâm Giải-Đại Đạo Chính Thống" nói khác chút ít: - "Nguyên Thủy Thiên Tôn tiếp truyền cho Lão Tử, đến An Sinh Kỳ, rồi Hoa Dương Chân Nhân, truyền tiếp Dươgn Chân Nhân Chính Chung nhữu Quyền, Thuần Dương Chân Nhân Lữ Thì Nhậm, Hải Thiêm Chân Nhân Lưu Huyền Anh Sáu phân. Nam, Bắc "Ở đây., Đông Hòa Đế Quân Vương Huyền Phủ biến thành Hoa Dương Chân Nhân, thực tế là đều nói đến Đông Vương Công.
* Cho dù Đông Vương Công có đến sau mà ở trên, địa vị cao hơn Tây Vương Mẫu đi nữa, ảnh hưởng của Ngài đối với dân gian vẫn không lâu dài bằng Tây Vương Mẫu.
Ngoại trừ trong các quán có đạo thờ cúng hình tượng Đông Vương Công ra, trong dân gian rất ít người biết đến Ngài Nếu có. Thì họ lại biết theo thần thoại sau: --
"Đông Vương Công còn gọi là Mộc Công, vốn tên là Nghê, tự là Quân Minh. 
Lúc thế giới chưa có loài người trở về trước Ông đã hoá sanh ở trên. Bích Hải (biển xanh) mênh mang hoang vắng Tính tình ông trầm tĩnh, tâm linh thông suốt, tuy. Bề ngoài vô tác vô vi, trên thực tế ngược lại có thể giúp đỡ tạo hoá, dẫn dắt vạn vật Ông ta làm chủ dương khí trên thế gian trấn ở Đông phương.. Do đó có hiệu là Đông Vương Công Phạm tất cả nam nữ thành tiên đắc đạo trên trên trời,. đất, đều ở trong sự quản lý của ông Ông thường. vào ngày Đinh Mao lên đài trông tình hình tu tiên đắc đạo ở mọi nơi trên thế gian, phân định làm chín phẩm: --
Nhất phẩm là Cửu Thiên Chân Hoàng 
Nhị phẩm là Tam Thiên Chân Hoàng. 
Tam phẩm là Thái Thượng Chân Nhân. 
Tứ phẩm là Phi Thiên Chân Nhân. 
Ngũ phẩm là Trung Linh Tiên. 
Lục phẩm là Chân Nhân. 
Thất phẩm là Linh Nhân. 
Bát phẩm là Phi Tiên. 
Cửu phẩm là Tiên Nhân. 
Các vị tiên này ngày sau thành đạo lên trời đều phải trước bái Vương Công Đông (Mộc Công) Sau đó. Bái yết Tây Vương Mẫu (Kim Mẫu), lễ rồi sau lay, mới có thể thăng tiên lên Cửu Thiên, vào Tam Thanh, tham lễ Thái Thượng Lão Quân mà gặp Nguyên Thuỷ Thiên Quân. "
* Nhược Thủy dịch
(Nguyên tác: - Trung Quốc tôn giáo thần minh-Thẩm Bình Sơn)
    * Tài liệu tham khảo: --
"Tứ Kho Toàn Thư Tổng Mục"
"Thần Kinh Dị"
"Bút Ký Tiểu Thuyết Đại Quan"
"Hoàng Đông Kinh"
"Trung Hoàng Kinh"
"Tứ Kho Toàn Thư"
"Tứ Kho Tổng Mục Đề Yếu"
"Thần Vân Tiên"
"Ngũ Nhạc Chân Hình Đồ"
"Hán Vũ Đế Vân Nội"
"Tuỳ Thư • Kinh Tịch Chí"
"Đạo Tạng"
"Thái Bình Nghiêm Ký"
"Tâm Giáo Sưu Thần Đại Toàn"
* Nguồn: -- http://www.dk101.com/Discuz/viewthread.php?extra=page% 3D1 & = 84.462 tid
Phụ lục: --
ĐÔNG VƯƠNG CÔNG
(MỘC CÔNG)
* Trong quyển "Nguyên Thuỷ Thượng Chân Tiên Chúng Ký" phần phụ đề Chăm Trưng Thư của Cát Hồng nói: - "Khi chưa phân lưỡng nghi (âm dương), trời đất còn hỗn độn, đã có Nguyên Thủy Thiên Vương Khi đã. phân âm dương, Nguyên Thủy Thiên Vương tinh thông khí kết cùng Thái Nguyên Thánh Mẫu, sanh ra "Phù Tang Đại Đế Đông Vương Công, hiệu là Nguyễn Dương Phụ (cha nguyên dương), kế đó mới sanh ra Tây Vương Mẫu." Các Tiên thì ba ngày chầu Phù Tang Công, ba ngày chầu Tây Vương Mẫu "Lại nói.: - [Phù Tang Đại Đế là khí nguyên dương, trị vì phương Đông, nên đời gọi con trai của vua chúa là" Đông cung " .
* Phù Tang Đại Đế cư nơi Bích Hải (biển Biec), bốn bề cuộc đất ba Ngan dam vuông, trên đó có Cung Thái Chân ... tiên chúng vô lượng vô số, các vị Huyền Châu, Phương Trường chưa lên trời ở tại đó Cũng giống như nói về Tây. Vương Mẫu, những "sự tích" về Đông Vương Công có rất nhiều, không biết được đúng sai ra sao cả.
-Theo "Thượng Thanh Huyền Kỷ Thất Thánh Kinh" phần "Phù Tang Đại Đế Quân" nói Ngài là một người có vị trí rất cao trong bảy vị Thánh Phái Thượng Thanh xuất hiện vào thời kỳ. Tùy Đường của Nam Bắc Triều. Sách nay hiện nay bị thất lạc, chưa tìm thấy.
-Trọng "Thái Bình Nghiêm Ký" quyển một phần "Nói về Mộc Công", phần cuối có đề cập đến Vân Tiên Thập Vị. Sách này không biết tên tác giả, được sách Tục Sự Thủy, đời Đường, trích dẫn như sau : - "Mộc Công, tức là Đông Vương Phụ hay Đông Vương Công, là nguyên khí thuần thanh, có trước muôn vật, đầu đội mạo Tam Duy, mặc y phục bằng mây màu răng chín, cũng có hiệu là Ngọc Hoàng Quân. Hưng nam nữ đắc đạo, được lập danh sách ở đó Hồi đầu. nhà Hán, trẻ con thường phổ biến bài hát "mặc quần áo xanh, vào thiên môn, ra mắt Kim Mẫu, bái Mộc Công Lạy" Cho nên. Sau này , khi có người đắc đạo, đời thường nói là "được gặp Kim mẫu, lễ Lạy Mộc Công" là do sự tích này.
-Theo sách "Tam Giáo sưu thần đại toàn" của Tăng Toản cuối đời Nguyên đầu nhà Minh, một quyển nói về Đông Hòa Đế Quân, viết: - "Khi đạo khí ngưng lại động, liền sanh ra Mộc Công, nơi cư biển Đây là Biec. khí thuần dương ở Đông phương, gọi là Đông Vương Công, cùng với Tây Vương Mẫu sanh ra trời đất, nuôi lớn muôn vật. Phạm mười phương trong trời đất nam nữ có đăng tiên, đều làm hai vị duyệt nay xét ".
* Sáu lại nói, "khảo cứu theo sách trước, nói là ... hiệu Đông Vương Công, hay Thanh Đồng Quân, Đông Phương Gia hoặc Thanh Đề Đế Quân (có lẽ là Thanh Đồng, làm nhầm chép, người dẫn chú giải). Danh hiệu tuy nhiều, nhưng cũng chỉ là một vị Đông Hòa thôi Vua phong. chức "Đông Hòa Dương Tử Phủ Thiếu Đế Quân" vào tháng Giêng năm Điệt Nguyên thứ sáu.

* Qua các sử liệu nêu trên, chúng ta thấy là các đạo sĩ đã dùng rất nhiều danh hiệu để nói về Đông Vương Công Cuối cùng., Sự tích được chấp nhận vào đời Nguyên là:
"Đông Vương Công còn gọi là Mộc Công, vốn tên là Nghê, tự là Quân Minh. 
Lúc thế giới chưa có loài người trở về trước Ông đã hoá sanh ở trên. Bích Hải (biển xanh) mênh mang hoang vắng Tính tình ông trầm tĩnh, tâm linh thông suốt, tuy. Bề ngoài vô tác vô vi, trên thực tế ngược lại có thể giúp đỡ tạo hoá, dẫn dắt vạn vật Ông ta làm chủ dương khí trên thế gian trấn ở Đông phương.. Do đó có hiệu là Đông Vương Công Phạm tất cả nam nữ thành tiên đắc đạo trên trên trời,. đất, đều ở trong sự quản lý của ông Ông thường. vào ngày Đinh Mao lên đài trông tình hình tu tiên đắc đạo ở mọi nơi trên thế gian, phân định làm chín phẩm: --
Nhất phẩm là Cửu Thiên Chân Hoàng 
Nhị phẩm là Tam Thiên Chân Hoàng. 
Tam phẩm là Thái Thượng Chân Nhân. 
Tứ phẩm là Phi Thiên Chân Nhân. 
Ngũ phẩm là Trung Linh Tiên. 
Lục phẩm là Chân Nhân. 
Thất phẩm là Linh Nhân. 
Bát phẩm là Phi Tiên. 
Cửu phẩm là Tiên Nhân. 
Các vị tiên này ngày sau thành đạo lên trời đều phải trước bái Vương Công Đông (Mộc Công) Sau đó. Bái yết Tây Vương Mẫu (Kim Mẫu), lễ rồi sau lay, mới có thể thăng tiên lên Cửu Thiên, vào Tam Thanh, tham lễ Thái Thượng Lão Quân mà gặp Nguyên Thuỷ Thiên Quân.
* Năm đầu Triều Hán có một đám trẻ con ở trên đường vừa chơi vừa hát một bài đồng dao: "Mặc quần xanh, lên cửa trời, chào Kim Mẫu, bái Mộc Công". Thời ấy chưa có người nghe hiểu được ý nghĩa trong bài đó, chỉ có Trương Lương nghe hiểu được ben hướng về đám trẻ con lễ Lạy Đồng thời. bảo người bên cạnh nói: "Đám trẻ con này là Ngọc Đồng của Đông Vương Công".
Tây là hướng mặt trời lặn, đó là nơi khí Âm thanh dần nên thuộc Nữ phái; đối lại chữ Đông là hướng mặt trời mọc, khí Dương Thành dần nên thuộc Nam phái.
Nên nói ở phương Đông có Đông Vương Công, làm chủ Khí Dương; ở phương Tây có Tây Vương Mẫu làm chủ Khí Âm Đông Vương. Công còn được gọi là Mộc Công, vì theo Ngũ Hành, Mộc ở phương Đông Tây Vương Mẫu. cũng được gọi là Kim Mẫu, vì hành Kim ở phương Tây.
Đông Vương Công chính là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, làm chủ khí Dương quang; Tây Vương Mẫu chính là Đức Diêu Trì Kim Mẫu, làm chủ Khí Âm quang.
Theo truyền thuyết Trung Hòa, thì Tây Vương Mẫu là 1 bà lão từ bi sống trên núi Côn Luân (phía tây Trung Hoa đại lục) Bà họ. Dương tên Hồi và còn có tên là Uyển Cấm.Bà cùng chồng là Vương Công Đông ( Ngọc Hoàng Đại Đế) hòa hợp hai khí âm dương tạo ra trời đất thiên địa, họ là chủ nhân và cai quản mọi vật trên thế gian Bà cai. quản các nữ thần còn chồng bà cai quản các nam thần Trọng Tâm Thế bất. cứ ai muốn đăng thiên đắc đạo, khi lên trời đều phải bái Mộc Công (Đông Vương Công), sau bái Kim Mẫu (Tây Vương Mẫu) mới có thể lên chín tầng mây và nhập vào trong Tam Thánh.
* Nguồn: - http://vi.wikipedia.org/wiki/
74. GIỚI THIỆU CỦA THẦN TIÊN
Hệ thống Thần Tiên trong Đạo Giáo có số lượng lớn quá, càng ngày càng tăng thêm . Đứng về mặt lý luận mà nói., Các vị thần là làm "Đạo Khí sinh hóa", mà đạo khí thì vô hạn, cho nên số thần cũng sẽ vô hạn Đạo khí. hóa sanh các vị thần nhân, chân nhân vô hạn. 
-Đồng thời, người đắc đạo có thể thành Tiên, nghĩa là Tiên làm người tu thành Như vậy,. Số lượng Tiên sẽ ngày càng nhiều càng làm người tu có kết quả. Ngoài ra, người Trung Quốc có quan niệm là "người nào tạo ra nhiều công trạng đối với dân với nước thì sẽ chết thành Thần "Trong nước có rất nhiều chí sĩ nhân nhân, hiền đạt, liệt sĩ ... hoặc làm Triều đình (nay là nhà nước) hoặc làm dân gian. sùng bái tôn thờ Tất cả dần dần hợp. thành "một hệ thống thần tiên", số lượng quá nhiều mà nguyên lai không cùng một chỗ tạo ra, nên việc phân định hệ thống đẳng cấp rất khó khăn.
Trọng Đạo Giáo, rất coi trọng việc xếp hạng đẳng cấp Từ thời Đông Hán,. "Thái Bình Kinh" đã bắt đầu có sự sắp xếp thần tiên. Từ thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều về sau, các chi phái Đạo Giáo phát sanh ra nhiều, mỗi phái mỗi thờ Tổ Sư và tôn thần khác nhau, cho nên cái gọi là "thống nhất Đạo Giáo" là việc "khó vô cùng" Từ trước. đã có quyển "Nguyên Thủy Thượng Chân Tiên Chúng Ký" sắp xếp hệ thống thần tiên có lúc bây giờ còn tương đối ít, thế mà cũng đã có nhiều chỗ "khiển cương" (gan ép) Đến đời. Te Lương, Đào Hoằng Cảnh của phái Thượng Thanh sách viết "Chân Linh Vị Nghiệp Đồ" sách này. còn được dùng cho đến nay.
* Từ sau thời Đào Hoằng Cảnh, đội ngũ thần tiên càng gia tăng rất nhanh, không thể thống kê cho hết. Nhưng dựa vào lý luận cơ bản mà nói, chúng ta có thể nhận tạm chấp hệ thống đẳng cấp của Trung Thần Tiên Quốc theo thứ lớp sau: --
1. Tam Thanh, Tứ Ngự;
2. Nam Cực Trường Sinh Đại Đế, Đông Cực Cứu Khổ Thiên Tôn, Mộc Công Đạo Quân, Kim Mẫu Nguyên Quân và Tam Thập Nhị Thiên Đế (1);
3. Thập Thái Nhất (2), Nhật Nguyệt Ngũ Tĩnh, Bắc Đầu, Nhị Thập Bát Tú Tinh Quân;
4. Ngũ Đế, Tam Quan, Tứ Thánh;
5. L ịch đại truyền kinh trư danh pháp sư;
6. Ma Vương, Thần Vương, Tiên Quán;
7. Ngũ Nhạc và Phong Đô Địa Phủ Chư Thần;
8. Phù Tang Đại Đế và Thuỷ Phủ Chư Thần;
9. Thiên Xu Viện, Khu Tà Viện, Lôi Phủ (chủ Tể và chư thần);
10. Các vị Công Tạo, Sứ Giả, Kim Đồng, Ngọc Nữ, Hương Quân, Lại Dịch đẳng;
11. Thành Hoàng, Thổ Địa và các thần chúng thuộc sở.
* Chú thích: -- 
(1) Tam Thập nhị THIÊN ĐẾ
Tam thập nhị Thiên là 32 cõi trời. Mỗi Bốn phương phương có 8 cõi: 4 x 8 = 32 cõi trời. 
A / - Theo Đạo Giáo Trung Quốc: --
Tam Thập Nhị Thiên / Tam Thập Nhị Đế
1.-Đông Phương Bát Thiên 
Đường Huỳnh Thái Hoàng Thiên, Đế Úc Giám Ngọc Minh 
Thái Minh Ngọc Hoàn Thiên, Đế Tu A Na Điền 
Thanh Minh Hà Đồng Thiên, Đế Nguyên Dục Kinh Tế 
Huyền Thái Bình Dục Thiên, Đế Lưu Độ Nội Tiên
Nguyên Minh Văn Cử Thiên, Đế Sửu Pháp Luân 
Thượng Minh Thất Diệu Di Ma Thiên, Đế Điềm Huệ Diên
Vô Ngũ Hành Thiên Việt, Đế Chính Quang Định 
Thái Cực Mông E Thiên, Đế Khúc Dục Cửu Xương 

2.-Nam Phương Bát Thiên 
Xích Dương Thiên Minh Hoà, Cẩm Thượng Đế Lý Chân 
Huyền Minh Cung Thiên Hòa, Đế Không Đạo Sửu Âm 
Diệu Minh Tôn Phiêu Thiên, Đế Trọng Quang Minh 
Trúc Huỳnh Già Thiên Lạc, Diệu Đế Ma Di Biên 
Hư Minh Đường Diệu Thiên, Đế Một Gia Lâu Sinh 
Quán Minh Đoan Tịnh Thiên, Đế Úc Mật La Thiên 
Huyền Minh Cung Thiên Khánh, Long Đế La Bồ Đề 
Hoàn Thái Cực Đạo Thiên, Đế Uyển Nhữu Vô Diên

3.-Tây Phương Bát Thiên 
Nguyên Tải Khổng Thăng Thiên, Chân Đế Khải Định Quang 
Thái An Huỳnh Thiên Nhai, Đế Bà La Một Thám 
Hiển Định Cực Phong Thiên, Chân Đế Chiêu Đồng 
Mạng thuỷ Hoàng Hiếu Thiên, Đế Tát Lâu La Vương 
Ông Thái Hoàng Trọng Phù Dung Thiên, Đế Mân Bà Cuồng 
Vô Tư Giang Đỗ Thiên, Đế Minh Phạm Quang 
Thượng Diệp Nguyễn Lạc Thiên, Đế Bột Bột Lâm 
Vô Cực Đàm Thiên, Đế Phiêu No Khung Long 

4.-Bắc Phương Bát Thiên 
Hạo Đình Tiêu Độ Thiên, Đế Huệ Giác Hôn 
Thông tin Uyên Nguyên Động Thiên, Đế Phạm Hành Quán Sinh 
Thái Văn Han Sung Diệu Thành Thiên, Đế Na Dục Sửu Anh 
Thái Tố Lạc Tú Cẩm Thượng Thiên, Đế La Giác Long Trường
Thái Hư Vô Thượng Thường Dũng Thiên, Đế Tổng hợp Giám Quỉ Thần 
Thái Hư Ngọc Long Đằng Thánh Thiên, Diệu Diệu Đế Hành Nguyên 
Độ dài Biến Phạm Thiên, Đế Vận Thượng Huyền Huyền 
Thái Cực Bình Dục Dịch Cổ Thiên, Đế Đại Trạch Pháp Môn 

B / - Theo Phật Giáo: --
1 .- Phương Nam có tám cõi: --
Sơn phong thiên.
Sơn đỉnh thiên.
Thiện kiến thiên.
Bát tư tha thiên.
Cư sử thiên.
Tạp thiên điện.
Hoàn Hỷ viên thiên.
Quang minh thiên. 

2 .- Phương Tây có tám cõi: --
Bà lý da đa thiên.
Lý Ngạn thiên hiểm.
Cốc Ngạn thiên nhai.
Ma ni tạng thiên.
Triển hành thiên.
Kim điện thiên.
Man hình thiên.
Như huyền thiên. 

3.-Phương Bắc có tám cõi: --
Tạp trang nghiêm thiên.
Như ý thiên.
Vi tế thiên.
Cà âm Hỷ lạc thiên.
Oai đức luân thiên.
Nhựt hành thiên.
Diễm ma na ta la thiên.
Tốc hành thiên. 

4 .- Phương Đông có tám cõi: --
Ảnh thiên chiếu.
Trí huệ hành thiên.
Chúng phân thiên.
Man đà la thiên.
Thượng thiên hành.
Oai đức thiên nhan.
Oai đức Diễm luân quang thiên.
Thanh tịnh thiên. 
* Mỗi cõi có một vị Thiên Đế cai quản nên có ba mươi hai vị Thiên Đế Ở giữa. Là Trời Đế Thích cai quản.
* Hoặc xếp theo nhóm như sau: --
 A. - TIÊN THIÊN TÔN THẦN: --
1 .- TAM THANH: - Nguyên Thủy Thiên Tôn-Thái Thượng Lão Quân-Linh Bửu Thiên Tôn Đứng đầu. Hệ thống Thần Tiên.
2 .- TỨ NGỰ: - Ngọc Hoàng Đại Đế, Trung Thiên Bắc Cực Tử Vi Đại Đế, Câu Trần Thượng Cung Thiên Hoàng Đại Đế Và Hoàng Hậu Thổ Địa Kì Chủ tế. Của trời đất vạn vật.
3.-Tây Vương Mẫu và Lôi Tổ.
B.-TINH QUÂN: --
-Chân Vũ Đại Đế (Huyền Thiên Thượng Đế)
-Thái Tuệ Tĩnh Quân. (60 vị)
-Nhị Thập Bát Tú.
-Bắc Đầu Thất Tĩnh.
-Đầu Mẫu.
-Văn Xương Đế Quân.
C.-THẦN sông núi .
-Bích Hà Nguyên Quân.
-Đông Nhạc Đại Đế.
-Lôi Bộ Ngũ Nguyên Soài Rạp.
Công-Điện - Điện Mẫu
-Lôi Công.
-Vũ Sư
-Phong Bá
-Long Vương.
D. - THẦN ĐẤT ĐAI: --
-Phước Lộc Thọ Tam Tinh.
-Thành Hoàng
-Thổ Địa.
-Thần Tài.
-Môn Thần.
E. - U Minh CẢNH GIỚI: --
-Phong Đô Đại Đế.
-Thập Điện Diêm La Vương.
* Đây chỉ là tạm thời đề xuất, bởi vi phạm hệ Thần Tiên của Đạo Giáo rất "mở rộng", dựa trên cơ sở lý luận chủ đạo: - "Người người đều có khả năng thành Tiên, đời đời đều có thể học tiên ", cho nên đội ngũ Thần Tiên ngày càng nhiều thêm và phong phú thêm lên.
* Việc sắp xếp theo trên theo tiêu chuẩn là "Vị và Nghiệp" "Nghiệp.", Là chỉ cho việc tu đạo đạt đạo hạnh cao thấp, sự cống hiến lớn hay nhỏ, nội đức dày hay mỏng; "Vị", là chỉ vị trí, địa vị ở Tiên Giới Phạm ông. nghiệp ưu thì vị càng cao càng Như vậy., nghiệp và vị nhất trí với nhau Về điểm. này, Mạnh An trong Bài "Đạo Giáo Nghĩa Từ" từng giải thích rõ ràng , có thể tham khảo sách này.
* Có một cách tổng quát xếp loại Thần Tiên thành ra chín phẩm, theo như cách làm của Thần Tiên Truyện như sau: --
1 .- Thượng Tiên
2 .- Thứ Tiên
3 .- Thái Thượng Chân Nhân
4 .- Phi Thiên Chân Nhân
5 .- Linh Tiên
6 .- Chân Nhân
7 .- Linh Nhân
8 .- Phi Tiên
9 .- Tiên Nhân
* Trọng "Bảo Phác Tử nội thiên-Luận Tiên" lại chia làm: - Thiên Tiên, Địa Tiên và Thị Giải Tiên (Tiên bỏ thây thi) [lại thì chết bỏ thây, nhưng hồn Tiên thành biến, mọi người Chỗ này hạng còn hạng kém hơn "giữa ban ngày phi thăng lên cõi trời" bậc một].
* Vương Trung Dương Nội và các Đan Gia thường chia thành Thiên Tiên, Địa Tiên, Nhân Tiên, Thần Tiên, Quỷ Tiên năm cấp khác nhau.
* Theo một thuyết được đa số người chấp nhận là: - "Kết quả tối cao của người học theo Đạo Giáo là, phi thăng về Đại La Thiên, nơi cư ngụ của vị thần tối cao tôn Nguyên Thủy Thiên Tôn, thành ra một vị Đại La Kim Tiên là hay hơn cả.
* Người viết: - Lưu Trọng Vũ 
* Nhược Thủy dịch 
(từ http://www.taoism.org.hk)
Xin theo dõi tiếp bài 16. dienbatn giới thiệu.

Không có nhận xét nào

Đăng nhận xét